I. ĐẠI CƯƠNG.
1. Định nghĩa.
Thoái hóa khớp có biểu hiện lâm sàng bởi đau khớp và cột sống mạn tính, không có biểu hiện viêm. Tổn thương cơ bản của bệnh là tình trạng thoái hóa của sụn khớp và đĩa đệm, những thay đổi ở phần xương dưới sụn và màng hoạt dịch. Nguyên nhân chính của bệnh là quá trình lão hóa và tình trạng chịu áp lực quá tải và kéo dài của sụn khớp.
2. Cấu tạo khớp
Khớp là nơi tiếp giáp giữa các đầu xương. Về mặt cấu tạo và chức năng, có ba loại khớp là : khớp động như các khớp ở tay, chân; khớp bán động như khớp các đốt sống và khớp bất động như khớp ở hộp sọ.
Khớp động là loại khớp cử động dễ dàng và phổ biến nhất trong cơ thể người như khớp xương đùi và xương chày, khớp xương cánh chậu và xương đùi. Mặt khớp ở mỗi xương có một lớp sụn trơn, bóng và đàn hồi, có tác dụng làm giảm sự cọ xát giữa hai đầu xương. Giữa khớp có một bao đệm chứa đầy chất dịch nhầy do thành bao tiết ra gọi là bao hoạt dịch. Bên ngoài khớp động là những dây chằng dai và đàn hồi, đi từ đầu xương này qua đầu xương kia làm thành bao kín để bọc hai đầu xương lại. Nhờ cấu tạo đó mà loại khớp này cử động dễ dàng. Khớp động phức tạp nhất trong cơ thể người là khớp gối.
Cấu tạo khớp động điển hình
Khớp bán động là loại khớp mà giữa hai đầu xương khớp với nhau thường có một đĩa sụn làm hạn chế cử động của khớp. Khớp bán động điển hình là khớp đốt sống, ngoài ra còn có khớp háng. Ở trẻ em, có xương mông và xương ấy…các đĩa sụn rất đàn hồi nên dễ uốn lưng mềm mại hay xoạc chân ra dễ dàng. Trái lại ở người trưởng thành và nhất là người già, các đĩa sụn dẹp lại làm cột sống khó cử động hơn, xoạc chân ra khó khăn.
Khớp bất động : Trong cơ thể có một số xương được khớp cố định với nhau, như xương hộp sọ và một số xương mặt. Các xương này khớp với nhau nhờ các răng cưa nhỏ hoặc do những mép xương lợp lên nhau kiểu vảy cá nên khi cơ co không làm khớp cử động.
3. Tổn thương giải phẫu bệnh.
– Bình thường sụn khớp và đĩa đệm có màu trắng ánh xanh, nhẵn bóng, ướt, rất cứng và đàn hồi mạnh, thành phần cấu tạo gồm các tế bào sụn, các sợi colagen và chất cơ bản. Các tế bào sụn ở người trưởng thành có số lượng ít và không có khả năng sinh sản và tái tạo, có nhiệm vụ là sinh tổng hợp các sợi colagen và chất cơ bản. Các sợi colagen là các phân lớn acid amin có cấu tạo chuỗi dài tạo nên các sợi đan móc vào nhau thành một mạng lưới dày đặc. Chất cơ bản có thành phần chủ yếu là mucopolysacarit gắn với một protein và gọi là chondro-mucoprotein. Các sợi colagen và chất cơ bản có đặc tính hút và giữ nước rất mạnh, có tác dụng điều chỉnh sự đàn hồi và chịu lực của đĩa đệm và sụn khớp.
– Khi bị thoái hóa, đĩa đệm và sụn khớp có màu vàng nhạt, mờ đục, khô, mềm, mất tính đàn hồi, mỏng và nứt rạn, có thể xuất hiện các vết loét, tổ chức sụn mất đi để lại cả phần xương dưới sụn, nhân của đĩa đệm mất tính căng phòng và trở nên mềm xẹp. Về mặt vi thể thấy tế bào sụn thưa thớt, các sợi colagen gẫy đứt nhiều chỗ, cấu trúc lộn xộn; chất cơ bản của sụn mất dần thành phần chondromuco protein. Sụn và đĩa đệm sau bị teo, nứt do đó trên X quang thấy khe khớp và khoang gian đốt hẹp.
– Phần xương dưới sụn: xương dày lên do các bè xương tăng sinh, một số bè bị gẫy và khuyết tạo nên các hốc chứa khớp ngấm từ khớp vào. ở chỗ tiếp giáp giữa bao khớp và ngoại cốt, giữa màng hoạt dịch và sụn khớp có hiện tượng cốt hóa mọc thêm xương tạo nên các gai xương, mỏ xương. Nếu gai xương mọc ở gần lỗ ghép có thể chèn ép vào rễ thần kinh.
Máy vật lý trị liệu Bộ Quốc phòng
Công ty Cổ phân TSun Việt Nam
[DoctorHome DH14] Máy trị liệu đa năng DoctorHome DH-14 (tiêu chuẩn)
Hỗ trợ cơ xương khớp chi dưới
– Màng hoạt dịch: thay đổi muộn và chậm với biểu hiện xơ hóa, xung huyết và thâm nhập limpho bào từng chỗ, lâu dần toàn bộ màng hoạt dịch bị xơ hóa và xung huyết. Có thể có biểu hiện tăng tiết dịch khớp nhưng không bao giờ có biểu hiện viêm.
4. Nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh.
4.1. Sự lão hóa:
ở người trưởng thành các tế bào sụn không có khả năng sinh sản và tái tạo, mặt khác khi người ta già đi, cùng với sự lão hóa của cơ thể, các tế bào sụn cũng dần dần giảm chức năng tổng hợp chất tạo nên sợi colagen và mucopolysacarit, làm cho chất lượng sụn kém dần nhất là tính đàn hồi và chịu lực.
4.2. Yếu tố cơ giới:
Là yếu tố quan trọng thúc đẩy nhanh quá trình thoái hóa nhất là thể thoái hóa thứ phát, thể hiện bằng sự tăng bất thường lực nén trên một đơn vị diện tích của mặt khớp và đĩa đệm, còn được gọi là hiện tượng quá tải, bao gồm:
– Các dị dạng bẩm sinh làm thay đổi diện tỳ nén bình thường của khớp và cột sống.
– Các biến dạng thứ phát sau chấn thương, u, loạn sản, làm thay đổi mối tương quan, hình thái của khớp và cột sống.
– Sự tăng tải trọng do tăng cân quá mức như béo phì, tăng tải trọng do nghề nghiệp…
4.3. Các yếu tố khác.
– Di truyền: cơ địa già sớm.
– Nội tiết: tuổi mãn kinh, đái tháo đường, loãng xương do nội tiết.
– Chuyển hóa: bệnh gout, bệnh da sạm màu nâu.
4.4. Cấu trúc sụn bình thường.
Thành phần chủ yếu của sụn bao gồm nước, proteoglycan, sợi collagen. Proteoglycan chứa lõi protein và các chuỗi glycosaminoglycan ở bên cạnh và chủ yếu là chondroitin sulfate và keratan sulfate. Các thể proteoglycan kết nối với axit hyaluronic, các glycosaminoglycan khác và các protein liên kết với cấu trúc này đảm bảo tính ổn định và bền vững của sụn.
Các sợi collagen cũng là những thành phần cấu trúc và chức năng quan trọng của sụn. Các collagen chủ yếu ở sụn trong, sụn khớp là collagen typ II, ngoài ra còn có collagen typ I, IX và XI.
4.5. Cơ chế bệnh sinh thoái hoá khớp.
Nhiều thuyết giải thích sự thoái hoá sụn trong bệnh thoái hoá khớp. Nhưng chủ yếu là thuyết cơ học khi có sự quá tải cơ học làm thay đổi chuyển hoá của các tế bào sụn, hình thành các men proteolytic gây phá vỡ các chất căn bản của sụn. Hiện tượng bệnh lý đầu tiên là những mảnh gãy nhỏ nhiều cỡ khác nhau; sau đó gây thoái hoá và mất dần sụn khớp, biến đổi cấu trúc của khớp và hình thành gai xương.
Giai đoạn sớm các tế bào sụn có biểu hiện phì đại, tăng tiết các cytokin như Interleukin I (IL-1); yếu tố hoại tử u (TNFα) và các yếu tố tăng trưởng khác, các men làm tiêu các chất căn bản như: các collgenases, gelatinase, stromolysin, các men khác như lysosyme và cathepsin. TL-1 và TNFα gây thoái hoá sụn bằng cách kích thích tiết các men gây phá hủy collagen và proteoglycan, đồng thời ức chế tổng hợp các protein của chất căn bản của sụn.
Các men kể trên bị ức chế bởi một protein có trọng lượng phân tử nhỏ, gọi là chất ức chế tổ chức của metalloproteinase. Sự cân bằng giữa các chất kích thích và ức chế hoạt tính của các men đảm bảo sự chuyển hoá sụn bình thường. Khi tăng yếu tố kích thích hoạt tính men dẫn đến thoái hoá sụn khớp. Quá trình thoái hoá khớp không kiểm soát được, vì khi có biến đổi cấu trúc sụn thì tác động cơ học lên khớp cũng thay đổi, dẫn đến những quá tải nặng hơn, làm giải phóng nhiều men gây thoái hoá hơn và tiếp tục như vậy quá trình thoái hoá liên tục xảy ra.
5. Các thể thoái hóa khớp.
Theo nguyên nhân người ta chia thành 2 thể:
– Nguyên phát: nguyên nhân chính là do lão hóa, thương xuất hiện muộn ở người cao tuổi, thoái hóa ở nhiều vị trí, tiến triển chậm, tăng dần theo tuổi, mức độ không nặng.
– Thứ phát: do nguyên nhân cơ học, có thể gặp ở mọi lứa tuổi, khu trú ở một vài vị trí, bệnh nặng và tiến triển nhanh.
6. Các giai đoạn của thoái hóa khớp.
– Giai đoạn tiền lâm sàng: Mặc dù có tổn thương thoái hóa về mặt sinh hóa và giải phẫu bệnh nhưng bệnh nhân chưa có biểu hiện lâm sàng mà có thể được phát hiện thông qua chụp X quang.
– Giai đoạn lâm sàng: bệnh nhân có biểu hiện đau, hạn chế vận động, trên X quang đã xuất hiện rõ tổn thương.
7. Dịch tễ học.
Thoái hóa khớp là một bệnh gặp khá phổ biến. Vị trí của thoái hóa khớp theo thứ tự là:
– Thoái hóa cột sống thắt lưng: 31%
– Thoái hóa cột sống cổ: 14%
– Thoái hóa khớp gối: 13%
– Thoái hóa khớp háng: 8%
– Thoái hóa khớp ngón tay: 6%
– Các khớp khác: 20%.
II. TRIỆU CHỨNG CHUNG CỦA THOÁI HÓA KHỚP.
1. Lâm sàng.
1.1. Triệu chứng đau.
Đau theo kiểu cơ giới, tức là đau khi vận động và giảm khi nghỉ ngơi.
– Vị trí: thường đau đối xứng hai bên, đau khu trú ở khớp hay đoạn cột sống bị thoái hóa ít lan xa, trừ khi có chèn ép vào rễ dây thần kinh.
– Tính chất: đau âm ỉ, có khi thành cơn đau cấp sau khi vận động ở tư thế bất lợi, đau nhiều về buổi chiều, giảm đau về đêm và sáng sớm.
– Đau diễn biến thành từng đợt, có khi diễn biến đau liên tục tăng dần.
– Đau không kèm theo các biểu hiện viêm.
1.2. Hạn chế vận động.
Các khớp và cột sống bị thoái hóa sẽ bị hạn chế vận động một phần, có khi hạn chế nhiều do phản xạ co cứng cơ kèm theo. Bệnh nhân có thể không làm được một số động tác như không quay được cổ, không cúi được sát đất, một số bệnh nhân có dấu hiệu phá gỉ khớp.
1.3. Biến dạng khớp.
Thường không biến dạng nhiều như trong các bệnh khớp khác, biến dạng trong khớp do mọc gai xương, do lệch trục khớp hoặc thoát vị màng hoạt dịch.
1.4. Các dấu hiệu khác.
– Toàn thân: không có biểu hiện gì đặc biệt.
– Teo cơ: do đau dẫn đến ít vận động.
– Tiếng lạo xạo khi vận động: ít có giá trị chẩn đoán.
– Tràn dịch khớp: đôi khi thấy ở khớp gối.
2. Cận lâm sàng.
2.1. Dấu hiệu X quang.
Có 3 dấu hiệu cơ bản:
– Hẹp khe khớp: hẹp không đồng đều, bờ không đều, biểu hiện bằng chiều cao của khoang gian đốt giảm, nhưng không bao giờ dính khớp.
Phân độ thoái hóa khớp gối theo Ahlback: Thấy trên phim Xquang
- Độ 0: Khớp gối bình thường
- Độ 1: Hẹp khe khớp nhẹ(<3mm)
- Độ 2: Mất hoàn toàn hoặc gần hoàn toàn khe khớp
- Độ 3: Mòn nhẹ lớp xương dưới sụn (0-5mm)
- Độ 4: Mòn vừa lớp xương dưới sụn( 5-10mm)
- Độ 5: Mòn nặng lớp xương dưới sụn (>10mm)
– Đặc xương dưới sụn: phần đầu xương, hõm khớp, mâm đốt sống có hình đậm đặc, trong phần xương đặc có thể thấy một số hốc nhỏ.
– Gai xương: thường mọc ở rìa ngoài thân đốt, gai xương có thể tạo thành các cầu xương, khớp tân tạo. Có khi gai xương có một số mảnh rơi vào ở khớp hoặc phần mềm quanh khớp.
2.2. Các xét nghiệm khác.
– Các xét nghiệm máu và sinh hóa không có gì thay đổi.
– Dịch khớp: màu vàng chanh, độ nhớt bình thường, không có tế bào hình nho, phản ứng tìm yếu tố thấp âm tính.
– Nội soi khớp: thấy tổn thương thoái hóa của sụn khớp, phát hiện các mảnh gai xương rơi vào ổ khớp, kết hợp sinh thiết màng hoạt dịch để chẩn đoán phân biệt.
– Sinh thiết màng hoạt dịch: thường để chẩn đoán phân biệt khi dấu hiệu X quang không rõ ràng.
III. THOÁI HÓA CÁC KHỚP NGOẠI VI.
1. Thoái hóa khớp gối.
1.1. Triệu chứng lâm sàng.
– Đau ở mặt trước hoặc trong khớp gối, đau tăng khi đi lại, lên xuống dốc, ngồi xổm. Có thể có dấu hiệu phá gỉ khớp khi khởi động thường đau cả hai bên gối.
– Hạn chế vận động không đi bộ được lâu vì đau, có tiếng lạo xạo trong khớp, có thể hạn chế nhiều phải chống gậy.
– Sưng khớp do các gai xương và phì đại mỡ quanh khớp. Có thể có tràn dịch khớp nhưng không bao giờ có biểu hiện viêm.
– Có các điểm đau ở khe khớp bánh chè – ròng rọc, chày – ròng rọc. Gõ vào bánh chè đau. Dấu hiệu bào gỗ (di động bánh chè trên ròng rọc kiểu như bào gỗ thấy tiếng lạo xạo). Giai đoạn muộn có thể xuất hiện teo các cơ ở đùi.
1.2. X quang.
Các dấu hiện X quang thấy trên khớp chày ròng rọc (thẳng) và bánh chè ròng rọc (nghiêng). Thấy các dấu hiệu: hẹp khe khớp, đặc xương dưới sụn, mọc gai xương và hình ảnh dị vật trong khớp.
1.3. Nguyên nhân.
Phần lớn hư khớp gối là thứ phát, do các nguyên nhân sau:
– Các dị tật của trục khớp gối: khớp gối quay ra ngoài, quay vào trong, khớp gối quá duỗi.
– Các di chứng của bệnh khớp gối: như di chứng chấn thương, viêm, chảy máu trong khớp.
2. Thoái hóa khớp háng.
2.1. Triệu chứng lâm sàng.
– Đau ở vùng bẹn hoặc vùng trên mông, lan xuống đùi, có khi chỉ đau ở mặt trước đùi và khớp gối. Đau xuất hiện từ từ tăng dần, đau tăng khi đi lại, đứng lâu, thay đổi thời tiết, giảm đau khi nghỉ ngơi. Có thể có dấu hiệu phá gỉ khớp khi khởi động.
– Hạn chế vận động, lúc đầu khó làm một số động tác như ngồi xổm, lên xe đạp nam, bước qua bậc cao, sau hạn chế nhiều, phải chống gậy.
– Khám ít thấy thay đổi vì khớp ở sâu, không thấy biểu hiện viêm.
2.2. X quang.
– Hẹp khe khớp: thường hẹp ở phần ngoài.
– Đặc xương dưới sụn: ở chỏm xương đùi, ổ cối xương chậu, lỗ dây chằng tròn… thường thấy các hốc xương, có khi hốc xương to thông với ổ khớp.
– Mọc gai xương: ở nhiều vị trí trên ổ cối, chỏm xương, lỗ dây chằng tròn.
2.3. Nguyên nhân.
Thoái hóa khớp háng thứ phát thường chiếm 50% trường hợp, do các nguyên nhân sau:
– Các cấu tạo bất thường của khớp háng và chi dưới: trật khớp háng bẩm sinh, chỏm khớp dẹt, ổ cối sâu.
– Di chứng các bệnh khớp háng: chấn thương, vi chấn thương, viêm (lao, thấp, vi khuẩn), các bệnh máu, chuyển hóa, nội tiết, hoại tử vô khuẩn chỏm xương đùi…
IV. ĐIỀU TRỊ THOÁI HÓA KHỚP.
1. Nguyên tắc chung trong điều trị thoái hoá khớp:
– Làm giảm triệu chứng đau.
– Duy trì, hoặc điều trị phục hồi chức năng của các khớp.
– Hạn chế sự tàn phế.
– Tránh các tác dụng độc do dùng thuốc.
Các biện pháp điều trị gồm:
2. Điều trị không dùng thuốc:
– Hướng dẫn bệnh nhân.
– Những sự giúp đỡ của gia đình và xã hội.
– Điều trị bằng phương pháp vật lí, lao động chữa bệnh.
– Các hoạt động hỗ trợ khác như tập thể dục, giảm cân.
3. Điều trị bằng thuốc:
– Các thuốc dùng trong điều trị thoái khớp có thể chia ra các nhóm sau:
. Các thuốc chống viêm giảm đau.
. Các thuốc giảm đau đơn thuần.
. Các thuốc điều trị chống co cứng cơ
. Các thuốc tác dụng kéo dài.
. Các thuốc làm thay đổi các cấu trúc sụn.
3.1. Các thuốc chống viêm giảm đau không steroid:
– Đây là nhóm gồm nhiều thuốc, có tác dụng chống viêm, giảm đau và hạ sốt. Các thuốc này thường dùng trong điều trị thoái hoá khớp vì vừa có tác dụng giảm đau, chống viêm.
– Tác dụng giảm đau trong điều trị thoái hoá khớp thường dùng với liều nhỏ hơn so với liều điều trị chống viêm. Vì tình trạng viêm trong thoái hoá khớp thường không nặng như trong các bệnh khớp khác. Khi dùng liều nhỏ các thuốc chống viêm giảm đau sẽ giảm nguy cơ tác dụng phụ trên ống tiêu hoá.
– Các thuốc chống viêm kinh điển hoặc các thuốc chống viêm giảm đau ức chế COX2 đều có thể chỉ định điều trị thoai hoá khớp. Tuy nhiên các thuốc ức chế chọn lọc COX2 ít nguy cơ gây biến chứng viêm, loét, chảy máu hoặc thủng dạ dày tá tràng hơn so với các thuốc chống viêm giảm đau kinh điển ( ức chế cả COX1 và COX2 ).
– Chỉ nên lựa chọn 1 trong số các thuốc chống viêm giảm đau không steroid không nên phối hợp 2 hay nhiều thuốc cùng nhóm vì tăng nguy cơ biến chứng nhưng tác dụng điều trị không tăng.
– Có thể phối hợp thêm các thuốc bảo vệ niêm mạc dạ dày, thuốc ức chế bơm proton (ví dụ omeprazole 20mg/ngày) hoặc misoprostol 200 àg/2lần/ngày đề phòng biến chứng dạ dày tá tràng ở những bệnh nhân dùng thuốc kéo dài hoặc có yếu tố nguy cơ cao.
3.2. Các thuốc giảm đau đơn thuần:
– Các thuốc này có tác dụng giảm triệu chứng đau, không có tác dụng chống viêm.
. Paracetamol có tác dụng giảm đau tương tự ibuprufen trong điều trị giảm đau do thoái hoá khớp gối, nhưng tác dụng giảm đau kém hơn so với các thuốc chống viêm khác.
Paracetamol có thể dùng cho những bệnh nhân đau vừa, đau nhẹ.
Liều dùng acetaminophen có thể thay đổi từ 100mg/ngày đến 4000mg/ngày nhưng dùng liều cao dễ nguy cơ độc với gan, thận nên không được dùng quá liều 400mg/ngày.
. Thuốc có thể dùng phối hợp với các thuốc giảm đau khác, hoặc các thuốc chống viêm. Nhưng phải thận trọng vì có thể ggay tác dụng phụ khó kiểm soát.
– Thuốc tác dụng tại chỗ:
. Các thuốc giảm đau tại chỗ điều trị thoái hoá khớp gối được chiết xuất từ quả ớt hoặc tiêu, là thuốc dán có 2 nồng độ 0,025 % và 0,075%, dán 2-4 lần / ngày. Thuốc này cũng được dùng điều trị đau thần sau Herper. Những ngày đàu bệnh nhân có cảm giác nóng, rát vùng da do dán thuốc .
. Có nhiều loại thuốc điều trị tại chỗ khác như: mentol, salycylate hoặc các thuốc chống viêm giảm đau khác không steroid dạng gel bôi tại chỗ đau như voltaren , emugel týp bôi, profenid gel.
– Các thuốc giảm đau gây nghiện:
Các thuốc này có tác dụng giảm đau nhưng gây nghiện nên phải thận trọng khi chỉ định chỉ dùng khi các thuốc chống viêm giảm đau khác có chống chỉ định hoặc đáp ứng với điều trị kém.
– Các thuốc chống trầm cảm lo âu: cũng có thể dùng cho bệnh nhân nhằm tăng tác dụng giảm đau của các thuốc dùng điều trị thoái hoá khớp nhất là ở các bệnh nhân có rối loạn giấc ngủ.
3.3. Các thuốc giãn cơ:
Các thuốc chống co cứng cơ có tác dụng làm giảm đau do giãn co cứng cơ, giảm kích thích các rễ thần kinh có thể dùng một trong các thuốc:
. Myonal 50mg liều 3 viên/ngày chia 3 lần.
. Mydocalm 150mg liều 3 viên/ngày chia 3 lần..
. Contratyl
3.4. Tiêm ổ khớp:
– Corticosteroid:
. Thuốc corticoid dạng viên uống thường ít khi dùng để điều trị thoái hoá khớp.
. Thường dùng cácthuốc dạng tiêm phóng thích chậm (depo- corticosteroid) khi có đau khớp và có dấu hiệu viêm màng hoạt dịch thứ phát.
. Viêm tràn dịch khớp gối do thoái hoá thường xảy ra khi có các mảnh sụn bị rạn bong trở thành các dị vật gây ra cơ chế phản ứng viêm khớp do vi tinh thể. Trước khi tiêm corticoid ổ khớp thường hút dịch kết hợp với bơm rửa ổ khớp bằng nước muối sinh lý.
. Liều lượng corticoid tuỳ thuộc từng khớp, cách tiêm, số lần tiêm cũng giống như khi tiêm ổ khớp điều trị VKDT thường dùng corticoid dung dịch treo. Khoảng cách giữa các lần tiêm trong vòng 1 tuần. Riêng đối với hydrocortison có thể tuần 2 lần. Số lần tiêm ổ khớp không quá 4 lần 1 đợt điều trị.
. Sau khi tiêm ổ khớp có 1 số trường hợp bệnh nhân có những cơn đau khớp vượng lên do các tinh thể thuốc có thể gây viêm màng hoạt dịch thường đau, viêm tăng lên 12-24 giờ sau khi tiêm. Nhưng sau vài giờ các triệu chứng sẽ giảm dần. Nếu đau, sưng kéo dài kèm theo sốc cần chọc hút dịch lại và kiểm tra đề phòng viêm khớp do vi khuẩn , do tiêm lần trước không đảm bảo vô trùng.
– Các chất nhầy:
. Thuốc tổng hợp hoặc nguồn gốc tự nhiên của acid hyaluronic. Các thuốc có trọng lượng phân tử lớn, có độ nhớt cao. Khi tiêm trong ổ khớp có tác dụng giảm đau kéo dài và cải thiện phạm vi cử động khớp. Cơ chế tác dụng của thuốc chưa rõ.
. Thuốc được bào chế dưới dạng ống tiêm sẵn, mỗi lần tiêm 1 ống vào ổ khớp, đợt tiêm 5 lần, mỗi lần cách nhau 1 tuần.
. Có nhiều biệt dược khác nhau như synvic, hyruan, go-on….
. Tác dụng giảm đau có kéo dài > 6tháng sau đợt điều trị.
3.5. Các thuốc tác dụng dài làm giảm triệu chứng thoái hoá khớp:
. Glucosamin sulfat: thuốc có tác dụng tăng tổng hợp các tinh chất sụn pro glycan và glucosaminoglycan làm tăng tính đàn hồi của tinh chất sụn, thay đổi cấu trúc sụn khớp.
Liều dùng glucosamin sulfat 500 mg ì 3 viên /ngày chia 3 lần có nhiều biệt dược khác nhau (Bosamin, Viatril – S…) nhưng đều có hoạt chất chung là glucosamin sulfat.
. Chondroitin sulfat: là một glucoaminoglycan với trọng lượng phân tử khoảng 14.000.
Liều dùng: 1200mg/ngày.
Glucosamin sulfat và chondroitin sulfat được coi là chất dinh dưỡng bổ xung, có thể dùng riêng rẽ hoặc phối hợp thuốc làm tăng hiệu quả điều trị.
. Diacerin ( Artrodar, Diasanté…) Nhóm thuốc trị liệu mới đây là dẫn chất acetylate của chất dihydro anthraquinone rhein diacerein ức chế interleukine 1α (IL- 1beta).có tác dụng chống viêm điều trị viêm xương, thoái hóa khớp.
Cơ chế t/d: ức chế sự sản xuất và hoạt động của chất Cytokine IL-1α tiền viêm và tiền dị hóa cả ở lớp nông và lớp sâu của sụn, màng hoạt dịch và các thành phần của chất căn bản ngoài tb như Proteoglycan, aggrecan, acid hyaluronic và chất tạo keo type II).
Diacerein viên 50mg/ lần ngày uống 2 lần, uống kéo dài . Diacerein uống có thể đái nước tiểu màu đỏ thường không có nguy hiểm chỉ cần biết và giải thích cho bệnh nhân yên tâm.
4. Các phương pháp vật lý trị liệu.
– Bất động tương đối với khớp viêm thoái hóa đợt cấp.
– Xoa bóp, bấm huyệt quanh khớp, châm cứu.
– Điều trị bằng nhiệt: paraffin, hồng ngoại, sóng ngắn, túi chườm…
– Điều trị bằng điện: điện xung, điện châm, điện di thuốc giảm đau.
– Điều trị bằng siêu âm liên tục hoặc chế độ xung vào khớp.
– Tử ngoại liều đỏ da (4-5 liều sinh học) cách ngày, 3-4 lần, diện tích chiếu dưới 300cm2.
– Điện di ion thuốc Novocain, Salicylat để giảm đau chống viêm.
– Chế độ vận động: hạn chế tải trọng lên khớp, không nên đi bộ nhiều, không đứng lâu, giảm cân nặng cơ thể; nên tập luyện các môn thể thao không gây gánh nặng cho khớp như đạp xe, bơi lặn, xà đơn xà kép…
5. Điều trị bằng phẫu thuật:
Những bệnh nhân điều trị nội khoa không kết quả hoặc có ảnh hưởng lớn đến chức năng cử động khớp có thể dùng biện pháp can thiệp phẫu thuật. Hiện nay có thể phẫu thuật nhiều bệnh nhân thoái hoá khớp gối bằng nội soi cắt bỏ gai mâm chày, phục hồi các dây chằng.
Phẫu thuật sửa chữa chỏm xương đùi và ổ cối được chỉ định cho bệnh nhân thoái hoá khớp phản ứng.
Phẫu thuật thay toàn bộ khớp tổn thương bằng khớp nhân tạo giúp cải thiện chất lượng cuộc sống; bệnh nhân thoái hoá khớp chỉ định cho những bệnh nhân đau nhiều, biến dạng khớp. Nên kết quả phẫu thuật rất tốt khi chỉ định thay khớp với mục đích giảm đau…
Biến chứng sau phẫu thuật thường gặp gồm tắc mạch, nhiễm khuẩn ở khoảng 5%. Tử vong sau phẫu thuật khoảng 1%. Biến chứng xa là lỏng khớp do lớp xi măng gắn với xương.
Hiện nay có nhiều kĩ thuật mới, vật liệu mới, nên phẫu thuật thay khớp kết quả ngày càng cao.
Originally posted 2010-08-01 13:46:13.
Thông tin về y học chỉ mang tính tham khảo, bạn cần hỏi ý kiến của thầy thuốc trước khi áp dụng cho mình và người thân. Với mỗi người việc đáp ứng với các liệu trình điều trị là khác nhau tùy thuộc cơ địa bản thân !