Thanh nhiệt tễ là dùng dược vật có tính vị hàn lương làm bộ phận chủ yếu tổ thành để thanh tiết tà nhiệt. Chúng đều có công năng thanh nhiệt, tả hỏa, lương huyết, giải độc, ở trong bát pháp nó thuộc “Thanh pháp”.
Thanh nhiệt tễ chủ yếu dùng ở ký nhiệt chứng, như trong quá trình bệnh nhiệt ngoại cảm mà xuất hiện sốt cao hoặc có mồ hôi mà không giải, vật vã, thần chí lơ mơ, phát ban, xuất huyết, là nhiệt nhập huyết phận, và chứng nhiệt nhập doanh huyết. Đinh sang, mụn nhọt là cảm nhiễm bì phu, và là tẩu hoàng mà dẫn đến chứng bại huyết, huyết nhiệt vọng hành đã dẫn đến các loại xuất huyết, rắn độc cắn mà thương, các loại sưng độc, nhiệt độc không có tên. Can hoả vị nhiệt là tạng phủ lý nhiệt, trong điều kiện nhất định, cũng có thể dùng ở bệnh kết hạch mãn tính, cảm nhiễm dẫn đến hư nhiệt.
Do phạm vi ứng dụng của thanh nhiệt tễ rất rộng, phương thuốc rất nhiều, chương này xuất phát từ thực tế lâm sàng, cho rằng cần phân thanh nhiệt thành 6 loại: Thanh khí nhiệt, Thanh huyết nhiệt, Tả hỏa giải độc, Thanh tạng phủ nhiệt, Thanh hư nhiệt để tiện tuyển chọn vận dụng.
Đặc diểm chủ yếu của phương tễ thanh khí nhiệt là lấy các dược vật có khí vị tân hàn, khổ hàn như: Thạch cao, Chi tử, Liên kiều, Hoàng cầm, làm bộ phận chủ yếu tổ thành, mà phương pháp phối ngũ thì căn cứ vào phát triển của bệnh tình mà có chỗ biến hóa. Phương pháp phối ngũ thường dùng trong đó là:
1.1. Với dược vật thanh nhiệt mà có tác dụng tuyên thấu như: Chi tử, Hoàng cầm, Đậu kỹ, Ngưu bàng tử, Thạch cao, Cát căn phối ngũ gọi là thanh khí tuyên thấu pháp. Dùng thích hợp với bệnh tà của ngoại cảm nhiệt bệnh. Tuy đã từ biểu nhập lý, khí phận có nhiệt mà biểu tà chưa giải hết, vẫn có nhè nhẹ các chứng sợ gió, sợ lạnh, mồ hôi ra không đỡ hoặc không có mồ hôi. Phương tễ thường dùng có Chi tử kỹ thang, Cát căn cầm liên thang, Cao cầm thanh đảm thang.
Chi tử kỹ thang là lấy cái khổ hàn tiết nhiệt của Chi tử phối hợp với cái thoái nhiệt tuyên thấu của Đậu kỹ. Cát căn cầm liên thang là lấy cái thanh nhiệt táo thấp của Cầm, Liên cùng phối hợp với cái thấu nhiệt giải cơ của Cát căn. Cao cầm thanh đảm thang là lấy cái thanh nhiệt táo thấp của Hoàng cầm cùng phối ngũ với cái phương hương đạt tà của Thanh cao.
1.2. Với dược vật thanh nhiệt mà có tác dụng sinh tân giúp nhau phối ngũ như: Tri mẫu, Thạch cao cùng dùng gọi là thanh nhiệt bảo tân pháp. Dùng thích hợp ở khí phần đại nhiệt, chứng thấy sốt mạnh mẽ, phiền khát, nhiều mồ hôi, mạch đại, cũng là “Dương minh kinh chứng” trong “Thương hàn luận”. Phương tễ thường dùng là Thạch cao tri mẫu thang (ngày xưa tên là Bạch hổ thang).
1.3. Với dược vật tuyên phế như Ma hoàng, Hạnh nhân phối ngũ thường gọi là thanh nhiệt tuyên phế pháp. Dùng thích hợp ở chứng nhiệt thịnh mà đàm nhiệt vây cản ở phế, phế khí bế tắc, mà thấy chứng trạng ho hắng xuyễn cấp. Phương tễ thường dùng là Ma hạnh thạch cam thang, Ngân vĩ hợp tễ, (phương kinh nghiệm của Thượng hải thự quang y viện). Cái trước là lấy tân hàn thanh khí của Thạch cao với cái khai phát phế khí của Ma hoàng, Hạnh nhân cùng phối ngũ. Cái sau là lấy thanh nhiệt giải độc của Ngân hoa, Liên kiều, Ngư tinh thảo cùng phối ngũ với khai phế khử đàm của Ma hoàng, Hạnh nhân, Lô căn, Đông qua tử (chương này chưa tuyển vào, có thể xem thêm chương 14 – Chỉ khái bình xuyễn và hóa đàm tễ và chương 23 – Trị ung trường tễ).
Do phạm vi của nhiệt chứng ở khí phận rất rộng, biến hóa rất nhiều cho nên khi xử phương tễ thanh khí nhiệt, lại có thể cùng phối ngũ sử dụng với hóa thấp pháp, tả hỏa giải độc pháp, thanh doanh lương huyết pháp, để thích ứng với đặc điểm của các loại nhiệt chứng ở khí phận.
Máy vật lý trị liệu Bộ Quốc phòng
Công ty Cổ phân TSun Việt Nam
[DoctorHome DH14] Máy trị liệu đa năng DoctorHome DH-14 (tiêu chuẩn)
Hỗ trợ cơ xương khớp chi dưới
Phương tễ Thanh thấp nhiệt là lấy khổ hàn táo thấp thanh nhiệt dược (như Hoàng liên, Hoàng cầm, Hoàng bá) với khổ tân vi ôn dược (như: Hậu phác, Bán hạ), thơm tho tuyên hóa dược (như Hoắc hương, Khấu nhân, Xương bồ), đàm thẩm lợi thấp dược (như: Hoạt thạch, Thông thảo) phối hợp tổ thành.
Khi lấy dược vật khổ hàn táo thấp thanh nhiệt làm bộ phận chủ yếu tổ thành của phương tễ, tức là có tác dụng thanh thấp nhiệt, cũng có tác dụng tả hỏa giải độc, dùng thích hợp với thấp nhiệt hóa hỏa, mà thấy sốt mạnh mẽ, vật vã, khát uống không nhiều, rêu lưỡi vàng sâu, lỵ tật, hoàng đản. Phương tễ thường dùng như: Hoàng liên giải độc thang, Bạch đầu ông thang, Nhân trần cao thang.
Lấy dược vật thơm tho tuyên hóa, thấu đàm lợi thấp làm bộ phận chủ yếu tổ thành, dùng thích hợp với thấp nhiệt lưu luyến, nhiệt có khởi phục, trường kỳ không lui, ngực buồn bằn, bụng trướng, mệt mỏi, dạ không linh hoạt, tiểu tiện ngắn đỏ, rêu lưỡi vàng nhạt mà trơn, thường dùng phương tễ như: Cam lộ tiêu độc đan.
Nếu thấp nhiệt trở trệ ở trường vị, thường lấy khổ hàn táo thấp thanh nhiệt dược và dược vật khổ tân vi ôn cùng phối ngũ, như Liên phác ẩm.
Phương tễ thanh nhiệt đã đem chia thành 2 loại thanh doanh và lương huyết, nhưng trên thực tế sự phân biệt đó không nhiều. Có thể lấy Thanh huyết nhiệt để khái quát lại. Phương tễ thanh huyết nhiệt thường lấy dược vật có khí vị cam hàn (như Sinh địa tươi), hàm hàn (như Huyền sâm, Tê giác) để tổ thành. Nếu nhiệt độc tích thịnh mà thấy sốt mạnh mẽ, vật vã, lưỡi dỏ sẫm, thường lấy dược vật hòa giải độc như Ngân hoa, Liên kiều, Hoàng liên, Đại thanh diệp, Bản lam căn, Tử thảo làm phối ngũ. Nếu nhiệt nhập tâm doanh mà thấy thần thức không tỉnh, thường lấy dược vật thanh tâm, khai khiếu, khoát đàm như Nõn lá tre non, Thạch xương bồ, Trần đảm tinh, Uất kim làm phối ngũ. Nếu thấy huyết phần rất nhiệt mà hao huyết, đọng huyết thường lấy dược vật lương huyết, tán huyết như Đan bì, Xích thược làm phối ngũ. Thanh doanh thang và Tê giác địa hoàng thang đều là lấy hàm hàn của Tê giác, và cam hàn của Sinh địa tươi để thanh doanh lương huyết làm bộ phận chủ yếu của tổ thành. Mà Thanh doanh thang lấy dược vật khổ hàn là Liên kiều, Hoàng liên phối ngũ để tả hỏa giải độc, cho nên tác dụng thanh nhiệt giải độc rất mạnh. Tê giác địa hoàng thang lấy Đan bì, Xích thược là dược vật lương huyết rất mạnh, là phương tễ đại biểu của lương huyết giải độc.
Phương tễ tả hỏa giải độc là lấy phần lớn dược vật thanh nhiệt giải độc như Hoàng liên, Đại hoàng, Đại thanh diệp, Bản lam căn, Đan sâm, Tử thảo, Cam trùng hoàng, làm bộ phận chủ yếu của tổ thành. Như Tả tâm thang, Hoàng liên giải độc thang sẽ là dùng một loại Đại hoàng, Hoàng liên, Hoàng cầm tổ thành giải độc tả hỏa tễ. Thần tê giác đan cũng là dùng Tê giác, Cam trùng hoàng, Tử thảo, Bản lam căn, Ngân hoa tổ thành tả hỏa giải độc tễ. Phổ tễ tiêu độc ẩm cũng là dùng Hoàng cầm, Hoàng liên, Bản lam căn, Liên kiều, Thăng ma để tổ thành tả hỏa giải độc tễ.
Phương tễ thanh tạng phủ nhiệt là căn cứ đặc điểm của tạng phủ mà lấy các dược vật khác nhau tổ thành, như Long đởm tả can thang tả hỏa của can đởm, cũng thanh can đởm thấp nhiệt; Tả phế tán (trước gọi là tả bạch tán) tả hỏa của phế.
Phương tễ thanh hư nhiệt thường dùng dược vật tư dưỡng thanh nhiệt mà tổ thành (như Miết giáp, Thanh cao, Địa cốt bì, Ngân sài hồ, Tần cửu). Ví dụ như: Thanh cao miết giáp thang lấy cái khổ hàn thấu tà của Thanh cao và hàm hàn của Miết giáp để tư âm thanh nhiệt, làm chủ yếu phối ngũ của phương. Phương tễ loại này thường dùng thích ứng với thời kỳ cuối của ngoại cảm nhiệt bệnh, hoặc ở trong quá trình bệnh mãn tính (như lao phổi) thấy đến chứng trạng âm dịch bị tổn thương, tà nhiệt lưu luyến ở âm phần, như sốt nhẹ, sốt về chiều, gò má hồng lên, gầy mòn, lưỡi hồng tươi mà ít rêu. Khi sử dụng phương tễ loại này, phải chú ý công năng của tỳ vị, nếu thấy ngực bụng trướng tức, ỉa lỏng, dạ ậm ạch, có thể giảm thiểu tễ lượng hoặc thêm bớt dược vật kiện tỳ, hòa vị thư trung.
Originally posted 2010-08-10 11:33:11.
Thông tin về y học chỉ mang tính tham khảo, bạn cần hỏi ý kiến của thầy thuốc trước khi áp dụng cho mình và người thân. Với mỗi người việc đáp ứng với các liệu trình điều trị là khác nhau tùy thuộc cơ địa bản thân !