Ung thư đại trực tràng là gì?
Bên trong khoang bụng của bạn là đường tiêu hóa dài, hình ống. Phần thứ hai của ống này – ruột già – bao gồm đại tràng, kéo dài từ 4 feet đến 6 feet, và trực tràng, chỉ dài từ 4 inch đến 6 inch.
Lớp lót bên trong của “ống đại trực tràng” này có thể là nơi sinh sản màu mỡ cho các khối u nhỏ, được gọi là polyp (Hình 1). Khoảng 1/4 số người trưởng thành ở Mỹ trên 50 tuổi sẽ có ít nhất một polyp đại trực tràng. Hầu hết các bệnh ung thư đại trực tràng phát triển từ các polyp trong mô tuyến của niêm mạc ruột.
Hầu hết các polyp đều lành tính, nhưng ít nhất một loại được biết là tiền ung thư. Chúng được gọi là polyp tuyến.
Kích thước của polyp tương quan với sự phát triển của ung thư. Những polyp có kích thước dưới 1 cm có nguy cơ phát triển thành ung thư cao hơn 1% một chút, nhưng những polyp có kích thước từ 2 cm trở lên có 40% khả năng chuyển thành ung thư. Nhìn chung, tỷ lệ mắc bệnh là khoảng 5%. Hầu hết các bệnh ung thư đại trực tràng phát triển từ các polyp trong mô tuyến của niêm mạc ruột.
Nếu ung thư đại trực tràng được chẩn đoán và điều trị sớm trong khi khối u vẫn còn khu trú thì khả năng chữa khỏi bệnh rất cao, với tỷ lệ sống sót sau 5 năm là khoảng 90%. Nếu khối u tiếp tục phát triển, ung thư có thể lan trực tiếp qua thành ruột đến các hạch bạch huyết, mô và cơ quan xung quanh cũng như vào máu.
Một khi ung thư lan đến các hạch bạch huyết hoặc các cơ quan khác, việc điều trị thành công sẽ trở nên khó khăn hơn. Tùy thuộc vào mức độ tiến triển của bệnh, tỷ lệ sống sót sau 5 năm dao động từ 11% đến 87%.
Ung thư ruột kết và trực tràng là bệnh phổ biến, với khoảng 135.000 trường hợp được chẩn đoán mỗi năm. Giống như nhiều bệnh ung thư, ung thư đại trực tràng là mối quan tâm đặc biệt đối với những người trên 50 tuổi.
Mặc dù việc chẩn đoán thường có thể thực hiện được ở giai đoạn đầu nhưng nhiều người vẫn trì hoãn việc tìm kiếm sự chăm sóc y tế vì họ xấu hổ hoặc sợ hãi về các triệu chứng liên quan đến đường ruột của mình. Nguy cơ tăng đáng kể sau tuổi 50 và tiếp tục tăng theo độ tuổi.
Máy vật lý trị liệu Bộ Quốc phòng
Công ty Cổ phân TSun Việt Nam
[DoctorHome DH14] Máy trị liệu đa năng DoctorHome DH-14 (tiêu chuẩn)
Hỗ trợ cơ xương khớp chi dưới
Nguyên nhân gây ung thư đại trực tràng?
Nguyên nhân chính xác của ung thư đại trực tràng chưa được biết rõ. Nhưng có một số yếu tố nguy cơ gây bệnh.
- Những căn bệnh khác. Ung thư đại trực tràng có liên quan chặt chẽ với một số bệnh khác. Những người được coi là có nguy cơ cao bao gồm bất kỳ ai có tiền sử cá nhân hoặc gia đình mắc polyp đại tràng hoặc ung thư ruột kết, bệnh viêm đại tràng như viêm loét đại tràng hoặc bệnh Crohn và ung thư tuyến tụy, vú, buồng trứng hoặc tử cung.
- Di truyền. Giống như bất kỳ bệnh ung thư nào, khả năng mắc bệnh ung thư đại trực tràng ít nhất một phần được xác định bởi cấu trúc di truyền. Một số người thừa hưởng các bệnh lý, chẳng hạn như bệnh đa polyp tuyến gia đình (FAP), bệnh đa polyp liên quan đến MYH (MAP), hội chứng Gardner, hội chứng Turcot, hội chứng Peutz-Jagher, bệnh đa polyp ở trẻ vị thành niên và bệnh Cowden. Trong tất cả các chứng rối loạn này, polyp đại tràng phát triển ở độ tuổi sớm và trừ khi được điều trị, những người này có nguy cơ cao mắc ung thư đại trực tràng.
- Ung thư đại tràng không polyp di truyền. Căn bệnh này kéo dài từ thế hệ này sang thế hệ khác và khiến một người mắc bệnh ung thư ruột kết. Bệnh này có liên quan đến các bệnh ung thư khác bao gồm nội mạc tử cung, buồng trứng, dạ dày, ruột non, tuyến tụy, thận, niệu quản, não và ống mật.
- Ăn kiêng. Chế độ ăn uống cũng góp phần làm tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng, mặc dù mối quan hệ nhân quả vẫn chưa rõ ràng. Những người có chế độ ăn nhiều trái cây và rau quả dường như giảm được nguy cơ mắc bệnh. Nhiều nghiên cứu cho thấy chất béo và protein động vật là tác nhân thúc đẩy ung thư đại trực tràng, mặc dù các nhà nghiên cứu vẫn thận trọng khi đưa ra bất kỳ kết luận chắc chắn nào. Một số nghiên cứu cho thấy rằng thường xuyên ăn thịt đỏ, vốn giàu chất béo bão hòa và protein, sẽ làm tăng nguy cơ mắc bệnh, trong khi những nghiên cứu khác không tìm thấy mối liên hệ nào. Một số nhà khoa học lưu ý rằng chất béo là thủ phạm chính, trong khi những người khác lại nghi ngờ protein. Những người khác cho rằng vấn đề không nằm ở chất béo và protein mà nằm ở cách chúng được nấu. Họ lưu ý rằng chất béo và protein được nấu ở nhiệt độ cao – đặc biệt là khi nướng và nướng – có thể tạo ra một loạt chất có khả năng gây ung thư liên quan đến ung thư đại trực tràng.
- Phơi nhiễm hóa chất. Tiếp xúc nhiều với một số hóa chất, bao gồm clo – chất thường được sử dụng với lượng nhỏ để lọc nước uống – có thể làm tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng. Việc tiếp xúc với amiăng được cho là có khả năng gây hại vì nó có liên quan đến việc hình thành các polyp trong ruột kết.
- Lịch sử của một số loại phẫu thuật. Các phẫu thuật như cắt niệu quản sigma, được thực hiện trong điều trị ung thư bàng quang và phẫu thuật cắt túi mật (cắt bỏ túi mật). Một số nghiên cứu cho thấy phẫu thuật bàng quang có thể dẫn đến nguy cơ phát triển ung thư ruột kết, nhưng các nghiên cứu khác thì không.
- Tiền sử ung thư ruột kết. Một trường hợp ung thư ruột kết trước đây làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư ruột kết thứ hai, đặc biệt nếu bệnh ung thư đầu tiên được chẩn đoán trước 60 tuổi.
- Cách sống.Hút thuốc và uống rượu hơn 4 ly mỗi tuần làm tăng nguy cơ phát triển ung thư ruột kết.
- Lịch sử gia đình. Những người có người thân thế hệ thứ nhất mắc bệnh ung thư đại trực tràng có nguy cơ mắc bệnh cao hơn. Nguy cơ tăng lên nếu có nhiều hơn một người thân thế hệ thứ nhất mắc bệnh ung thư ruột kết.
- Sự bức xạ. Việc xạ trị trước đó chỉ làm tăng nguy cơ ung thư đối với các mô được chiếu xạ.
Carmelita Swiner, MD – Nguồn WebMD.com
Bài viết được dịch tự động bởi Google Translator
Thông tin về y học chỉ mang tính tham khảo, bạn cần hỏi ý kiến của thầy thuốc trước khi áp dụng cho mình và người thân. Với mỗi người việc đáp ứng với các liệu trình điều trị là khác nhau tùy thuộc cơ địa bản thân !